GD&TĐ -Nghiện rượu đến nỗi suýt bị lột áo trừ nợ, Nguyễn Bá Dương vì thế mà xấu hổ cai rượu.
Sách 'Công dư tiệp ký' và nhiều nguồn sử liệu ghi chép khá tỉ mỉ giai thoại về Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương. Ảnh minh họa: IT. |
Ông tu chí học thành tài, đỗ đại khoa, trở thành trọng quan triều vua Lê - chúa Trịnh và để lại những giai thoại thật đẹp.
Nhà nghèo vẫn tin thành rường cột quốc gia
Nguyễn Bá Dương (1740 - 1785), quê làng Nguyên Xá, tổng Cổ Cốc, huyện Thần Khê (nay là xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Ông là một trong những nhà khoa bảng để lại nhiều giai thoại sáng về đạo đức nho học, đạo làm người, đạo làm quan và tinh thần đấu tranh không sợ cường quyền, trong đó có những giai thoại được lưu truyền trong sách “Công dư tiệp ký”.
Sách “Công dư tiệp ký” và các nguồn sử đăng khoa cho biết, ngay từ tuổi nhỏ, Nguyễn Bá Dương đã nổi tiếng thông minh, hay chữ, học giỏi, được người khắp huyện Thần Khê biết đến và gọi là thần đồng. Tuy nhiên, nhà ông rất nghèo, nghèo đến hạng bậc nhất trong tổng Cổ Cốc. Nhưng không vì nghèo mà Nguyễn Bá Dương phải tự ti, ông cho là nghèo nhưng không hèn, thế nên sống rất hiên ngang.
Cùng với tài năng của mình, tính tình ông vô cùng bộc trực, yêu ghét rõ ràng chứ không một chút lắt léo, xu nịnh, uốn mình khom lưng trước bất cứ ai, bất cứ điều gì. Đời cơ hàn của ông cũng vì thế mà trở nên khác biệt với mọi người, không ai dám khinh, ngược lại họ rất tôn trọng một người nghèo mà có học như Nguyễn Bá Dương.
Giai thoại kể rằng, khi còn là học trò đi ngang qua phủ đệ của một viên quan lớn trong triều là Bình Trung Công người đất Diên Hưng, Nguyễn Bá Dương dừng lại ngắm dãy tường bao đắp nổi phù điêu sơn thủy sống động, kỳ công và đầy cao sang. Khi đang ngắm cây tùng trồng trên đá bên tường thì viên quan lớn nhìn thấy, bèn thử tài ứng đối và bảo Bá Dương hãy vịnh một bài về cây tùng.
Không hề e ngại, cậu học trò Nguyễn Bá Dương liền cầm bút viết: “Thạch thượng thanh tùng bách xích trường/ Phi hoa mãn động thủy sinh hương/ Đinh ninh tiểu tử hưu kinh phạt/ Lưu thủy tha niên tác đống lương” (Trăm thước thông trên đá vững vàng/ Hoa phô đầy động nước sinh hương/ Đinh ninh dặn chú tiều đừng đẵn/ Dành để mai sau hóa cột rường).
Bài thơ không chỉ tả thực cây tùng trên đá theo đề bài của Bình Trung Công mà cậu học trò còn tự ví mình với cây tùng vững vàng, vươn thẳng, là trụ cột tương lai của đất nước, là rường cột quốc gia, sẽ phò vua giúp nước lập công trạng cho đời.
Thấy chú bé quê mùa nhưng chí lớn, lại tài năng, khí phách nên Bình Trung Công chỉ còn biết rất khâm phục, tặng luôn 5 quan tiền. Về sau, bài thơ này được đặt tiêu đề là “Thạch tùng”, gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bá Dương.
Một giai thoại khác cũng kể Nguyễn Bá Dương nhà tuy nghèo nhưng tính tình phóng khoáng, hay làm thơ và thích uống rượu từ nhỏ. Khi lên kinh đô theo học, thói quen ấy không thể bỏ.
Vì không có tiền nên ông hay uống chịu rượu của bà bán rượu Kẻ Mơ thuộc Hoàng Mai đất Thăng Long. Uống rượu chịu mãi rồi số tiền ghi nợ đã lên đến chín đồng. Năm lần bảy lượt bà bán rượu đòi tiền rượu vì sợ ông “bùng” nhưng khổ nỗi Nguyễn Bá Dương đâu có xu nào trong túi mà trả.
Bực lắm, lại là dân buôn nên nào có kiêng nể chi ai, bà bán rượu la lối đòi lột áo trừ nợ. May sao cũng lúc ấy có cô gái cũng làm nghề bán rượu cùng quê với bà kia thấy anh khóa nghèo bị đòi lột áo, động lòng trắc ẩn nên can ngăn bà bán rượu cùng làng. Nhưng can mãi cũng không xong, liền rút ruột tượng ra đếm đủ chín đồng đưa cho bà kia, rồi quẩy gánh đi luôn.
Các tân khoa ngựa xe xênh xang về quê, còn Nguyễn Bá Dương vì nghèo nên chỉ một mình vinh quy bái tổ. Ảnh minh họa: IT.
Đạo làm người không tham phú phụ bần
Nguyễn Bá Dương được người lạ cứu cho một phen đỡ bẽ mặt, dù tính ngông nghênh nhưng cũng lấy làm thẹn, mới chạy theo cô gái cảm ơn, lại hỏi tên tuổi để sau đáp đền. Cô gái xua tay mà đáp: Tôi thấy chàng là học trò, vì rượu chè mà bị xấu hổ vì một người đàn bà, không đành lòng nên trả hộ thôi, không có ý mong được báo đền.
Nói xong cô quẩy gánh đi thẳng mà cũng chẳng xưng danh tính. Áy náy trong lòng, Nguyễn Bá Dương mới hỏi thăm tung tích, biết được cô gái là người Kẻ Mơ. Cũng kể từ dạo ấy, lấy làm thẹn với bản thân chưa nên công danh mà đã bê tha, Nguyễn Bá Dương đã lên trấn Sơn Tây trọ học trong nhà một hào trưởng, ngày đêm chăm lo đèn sách. Cũng vì nghèo không đủ tiền mua giấy viết, nhiều lúc Bá Dương dùng luôn cả ghế mà đề văn.
Nhờ trí thông minh và siêng năng sôi kinh nấu sử nên chỉ mấy tháng sau, Nguyễn Bá Dương dự kỳ thi Hương đỗ ngay Cử nhân. Tiếp đến kỳ thi Hội khoa Bính Tuất (1766) đời vua Lê Hiển Tông, Bá Dương đã đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, tên đứng thứ 7 trong hàng Đệ tam giáp.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766) do Nhập thị Tham chính Công bộ Thượng thư Thái tử Thái bảo Xuân Nhạc hầu Nguyễn Nghiễm vâng sắc soạn, cho biết: Qua trường bốn lấy trúng cách bọn Ngô Thì Sĩ và 11 người khác. Qua tháng sau vào Điện thí, ban cho bọn Ngô Thì Sĩ đỗ Tiến sĩ, đồng Tiến sĩ có thứ bậc khác nhau. Lại sai khắc tên trên đá để lưu truyền bất hủ.
Thường thì khi thi đỗ, các vị Tiến sĩ tân khoa đều có kẻ hầu người hạ, võng lọng xênh xang nhưng vì nhà nghèo nên Nguyễn Bá Dương vẫn lẻ loi một mình một bóng về làng vinh quy bái tổ.
Thời điểm ấy, danh tiếng của Nguyễn Bá Dương được nhiều người khắp kinh kỳ biết đến. Có bà quận chúa con chúa Trịnh biết tin ông đỗ, liền lệnh sai người đem kiệu đến đón, lại đưa mấy nàng thiếu nữ là con và cháu gái ra tùy nghi cho xem mặt, ưng ai cho kết duyên người ấy.
Lúc này, Nguyễn Bá Dương vẫn còn nhớ đến cô gái Kẻ Mơ giúp mình thuở trước, bèn nói với quận chúa: “Xin quận chúa thứ tội, kẻ bần hàn này chỉ muốn kết duyên với cô bán rượu Kẻ Mơ thôi! Không dám vì được vinh hoa phú quý mà phụ nghĩa khi xưa”.
Tác thành mãi không được, quận chúa đành thuận lòng, cho người về đất Hoàng Mai đón cô bán rượu Kẻ Mơ ra làm vợ chính của Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương, còn một cô cháu gái quận chúa được làm vợ thứ. Kẻ sĩ, hạ dân trong kinh thành Thăng Long biết việc, ai cũng khen Nguyễn Bá Dương nên cùng nhau tán tụng vui rằng: “Thiếu “kim văn” đỗ Tiến sĩ/ Mất “chín tiền” được... bà Nghè!”.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Bá Dương được bổ dụng chức Hàn lâm viện Thị chế sau thăng đến Tế tửu Quốc Tử Giám. Với tài năng và nhiệt huyết, ông rất được chúa Trịnh Sâm nể trọng, giao cho ông giữ việc hình án ở Ái Châu (Thanh Hóa).
Nguyễn Bá Dương bắt vây cánh của Tuyên phi Đặng Thị Huệ đã chứng tỏ sự dũng cảm, không sợ cường quyền. Ảnh minh họa: IT.
Không sợ cường quyền, phe cánh
Theo sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, cha Trịnh Sâm là Trịnh Doanh khi còn chưa lên ngôi chúa nhưng đã được Trịnh Giang phong làm Thái úy, Tiết chế quân thủy, quân bộ các xứ. Sau cuộc đảo chính năm 1740, Trịnh Doanh lên ngôi thay anh. Trịnh Doanh tỏ ra cẩn trọng trong việc nuôi dạy con, bổ dụng 2 Tiến sĩ làm Tư giảng cho Trịnh Sâm.
Cuối năm 1753, theo đề nghị từ quần thần, Trịnh Doanh chính thức sách lập Trịnh Sâm làm Thế tử, bổ dụng Tham tụng Nguyễn Công Thái giữ chức Sư phó để dạy Trịnh Sâm. Năm 1758, Trịnh Sâm được phong làm Tiết chế thủy bộ chư quân, chức Thái úy, tước Tĩnh quốc công, mở phủ Lượng quốc, quyết định công việc Nhà nước.
Tư giảng Nguyễn Hoàn dâng 10 bài châm, gồm: Bụng nghĩ phải ngay thẳng; Học hỏi phải rộng khắp; Tề chỉnh việc chính trị trong nước; Phòng ngừa việc đối với người thân cận; Thống nhất căn bản chính sự; Cẩn thận việc sai phái, cất nhắc; Mở rộng việc thu nhận những lời khuyên can; Giữ phép tắc đã sẵn có; Hiệu lệnh phải cho tin thực; Việc nào đáng rộng rãi hay nghiêm ngặt, nên xét kỹ. Tất cả được Trịnh Sâm tiếp nhận.
Từ sau năm 1775, Trịnh Sâm ngày càng sa vào tửu sắc, chính trị suy bại, cuộc sống người dân trở nên cơ cực. Ông sủng ái Tuyên phi Đặng Thị Huệ nên Tuyên phi muốn gì, chúa cũng đều chiều theo.
Được thể, Tuyên phi để cho họ hàng, tay chân của mình làm những việc lộng càn trong phủ chúa, cung vua mà chẳng sợ ai bắt bẻ, như để em trai là Đặng Mậu Lân là kẻ dâm dật, hung bạo chém chết cả Sử trung hầu mà chẳng trị tội, hay tằng tịu cả với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo đến nỗi dân gian phải than rằng: “Trăm quan có mắt như mù/ Để cho Huy Quận vào sờ chính cung”.
Các quan viên trong phủ chúa dù biết những việc làm ngang ngược của Thị Huệ cùng vây cánh nhưng không ai dám hé răng nửa lời. Bè lũ nhà Tuyên phi càng được thể làm càn. Dạo ấy, Nguyễn Bá Dương được giao cho giữ việc hình án ở Ái Châu, có tên án trấn là Mỗ (theo “Công dư tiệp ký” của Tiến sĩ Vũ Phương Đề) chuyên coi việc kiện tụng, là vây cánh của Tuyên phi Đặng Thị Huệ nên lấy việc xét xử để tham nhũng tiền của các đương sự.
Khi đến Ái Châu, chứng kiến hành động ăn của đút ngang nhiên của tên Mỗ, Bá Dương thẳng tay, ra lệnh cho bắt trói lại, bảo phải nộp lại số tiền đã ăn hối lộ bấy lâu, nếu không sẽ nọc ra đánh trượng cho đến chết. Tên Mỗ sợ quá, phải nộp số tiền đã tham ô là bốn trăm lạng vàng. Chứng cứ phạm tội đã rõ như ban ngày, ông cho người bỏ ngục tên tay chân của chính cung, rồi lệnh giải hắn về kinh cùng với số vàng để chúa xét xử.
Về đến Thăng Long, Nguyễn Bá Dương cứ thực tình tâu lên với chúa Trịnh Sâm. Khi tờ khải được đưa đến chúa Trịnh, thì việc của tên Mỗ cũng được tay chân ton hót ngay lại với Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tức vì Mỗ bị Nguyễn Bá Dương làm nhục, cũng là gián tiếp đụng đến danh dự, uy thế của bản thân, Tuyên phi liền vào ngay trong phủ, lấy nước mắt đàn bà mà kêu khóc với Trịnh Sâm rằng, tên Mỗ bị oan tình, ức hiếp.
Nhưng khổ nỗi, chứng cứ rành rành ra đấy làm sao chối tội được. Chúa Trịnh Sâm dù sủng ái chính cung, nhưng cũng phải lắc đầu mà chỉ vào bốn trăm lạng vàng đang để trên khay rồi nói: “Nàng nhìn xem, số vàng hắn ăn của đút hiện có đây, vậy còn oan ức gì nữa mà kêu với xin”.
Tuyên phi Đặng Thị Huệ nhìn khay vàng thì chỉ còn biết câm nín, không thể bào chữa được nửa lời cho kẻ tay chân vì vật chứng đã quá rõ ràng. Tên Mỗ hết người cứu giúp nên phải chịu tội theo luật. Cũng vì vậy, mà mầm mống oán nghiệt giữa Tuyên phi Đặng Thị Huệ đối với Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương cũng bắt đầu được nuôi dưỡng.
Trong sách “Tang thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, soạn thời Lê mạt có kể rằng: Người châu Ái đến nay hãy còn khen và nhắc đến chuyện ấy (chuyện Nguyễn Bá Dương bắt vây cánh của Tuyên phi Đặng Thị Huệ). Sau đó, Nguyễn Bá Dương được lưu lại kinh đô Thăng Long bổ dụng làm quan, lần lượt trải qua các chức Hàn lâm viện đãi chế, Tế tửu Quốc Tử Giám. Tương truyền, dù làm quan to nhưng ông không bao giờ tư lợi nên rất được lòng chúa Trịnh và quan viên trong triều. Đáng tiếc, ông sống không thọ, qua đời khi mới 46 tuổi (1785).
Tin liên quan Tiến sĩ không làm quan vẫn để lại tiếng thơm muôn đời Vũ Phi Hổ - Vị tiến sĩ đầu tiên của vùng Đông Bắc Bộ